Ta đã cạn nước mắt, mất tiếng cười vì cuộc đời,
Nhưng ta đã được quay về với linh hồn trắng trong, nhân hậu của NGƯỜI THẬT NGƯỜI,
Nhưng ta đã vượt khỏi lên trên những tối tăm, tội lỗi của NGƯỜI CHẲNG NGƯỜI,
Bao đớn đau tan hồn, nát xác, người đã gieo ở ta,
Ta đã được gặt hái, những bông hoa CAO ĐẸP nhất ở sự THƯƠNG YÊU và THA THỨ vô bờ…”
Nghiêm lễ chính là bài học đầu tiên của
của mọi thành viên Vovinam. Bài học này sẽ là hành trang quý báu, hữu
hiệu, một thứ cẩm nang đa dạng về võ, tình cảm lẫn đức hạnh mà bất cứ
một thành viên Vovinam nào cũng cần phải có và mong muốn có. Bài học đó
sẽ chắc chắn đưa người Vovinam đến với những thương yêu và tha thứ, ngày
một thăng hoa hầu đạt tới cứu cánh của Vovinam là thương yêu và tha thứ
vô bờ.
1. Hình thức Nghiêm lễ
Nghi thức Nghiêm lễ hoàn hảo gồm 3 tư
thế (nghiêm, nghiêm lễ, lễ), 4 động tác (nghiêm, đưa tay phải ra phía
trước rồi đặt vào tim, nghiêng người thẳng về phía trước) và 3 khẩu
lệnh. Như chúng ta đã biết: Con người là loài động vật duy nhất đứng
thẳng bằng hai chân và 2 tay được giải phóng để họat động tự do theo trí
não. Tuy vậy, trong sinh hoạt thường ngày con người ít khi đứng thẳng.
Tư thế này muốn nhắc nhở và hướng dẫn các thành viên gia đình Vovinam
luôn hãnh diện về khả năng thiên phú này và hãy nhớ đến nó để luôn luôn
đứng thẳng.
Tư thế “Nghiêm” – khẩu lệnh: “Nghiêm”. Tư thế này gồm 8 điểm buộc phải thực hiện chính xác.
1. Hai cẳng chân sát vào nhau – hai bàn
chân sát xuống mặt đất, mười đầu ngón chân bấm xuống mặt đất hướng chéo
về hai bên cùng hai gót chân sát vào nhau tạo thành hình chữ V đây cũng
là trọng tâm pháp (tấn) đầu tiên của Vovinam.
2. Chân thẳng, đầu gối thẳng.
3. Lưng thẳng (không ưỡn, không cong).
4. Vai thẳng, hai đầu vai cân bằng tạo thành một đường song song với mặt đất.
5. Cổ thẳng, tạo thành một góc vuông với vai.
6. Đầu thẳng, không ngửa lên, không cúi xuống.
7. Mắt nhìn thẳng, không liếc ngang liếc dọc.
8. Hai tay thẳng, buông xuôi sát thân mình, hai lòng bàn tay ép nhẹ vào đùi.
“Nghiêm” cũng là vị thế cao nhất của con
người. Tư thế “Nghiêm” còn thể hiện một hình dạng Người Thật Người, với
đầy đủ Chân – Thiện – Mỹ, uy dạng hiên ngang, thanh cao và hiếu hòa.
Theo văn học truyền khẩu của dân gian
Việt Nam thì “Tướng tùy tâm diệt, tướng tự tâm sinh”, nhìn hình dạng bên
ngoài có thể biết tính tình bên trong của mỗi con người. Tướng ở đây là
những phần hữu hình bên ngoài của con người (thân). Tâm là những tảng
phủ và những phần vô hình (tính tình, thần khí…) bên trong thân thể. Tâm
và thân luôn luôn chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau để giúp con người
thăng hoa hoặc khiến con người trụy lạc.
Tư thế “Nghiêm-lễ” – Khẩu lệnh: “Nghiêm-lễ” (hô liền nhau).
1.Từ tư thế nghiêm, tay phải từ dưới đưa lên ngang vai, thẳng góc với vai, 5 ngón tay sát nhau cùng hướng về phía trước
2. Co tay phải lại, lòng bàn tay hướng
vào trong người, cánh tay trên bất động đặt lòng bàn tay đè nhẹ sát vào
ngực trái trên quả tim. Tư thế “Nghiêm-lễ” còn có tên là Bàn Tay Thép
đặt trên trái tim Từ ái.
Tư thế Lễ – Khẩu lệnh: “Lễ”
Từ tư thế “Nghiêm-lễ”, nghiêng mình
thẳng mình về phía trước một góc khoảng trên 30 độ (nghiêng chứ không
cong), mặt và đầu hơi ngước lên đủ để mắt mình nhìn thẳng vào mắt người
đối diện (ngước chứ không cúi).
2. Ý nghĩa nghi thức Nghiêm lễ
a) Ý nghĩa tư thế “Nghiêm”
Tư thế “Nghiêm” hướng dẫn và buộc thành
viên Vovinam phải cương trực và khiêm cung, thể hiện được sự uy dũng và
hiên ngang nhưng thanh cao, khoáng đạt. Vì vậy, tư thế này thể hiện bát
trực (8 điều thẳng)
1. Gối thẳng : thể hiện sự kiên cường, không quỵ lụy, van xin.
2. Lưng thẳng: thể hiện sự không nịnh bợ, luồn cúi.
3. Vai thẳng: theo chiều ngang, thể hiện sự công chính, liêm minh, không phe đảng, thiên vị.
4. Cổ thẳng: thể hiện sự khẳng khái,
thành thật, trung ngôn; không so vai, rụt cổ vì nó biểu hiện sự khiếp
nhược, hèn nhát, không dám nhận trách nhiệm.
5. Đầu thẳng: biểu hiện sự quang minh
chính đại, đường đường chính chính vì cúi đầu biểu hiện sự phạm tội, xấu
hổ. Nghênh mặt là kẻ kiêu căng hợm hĩnh, khinh mạn.
6. Mắt nhìn thẳng thể hiện sự đoan chính
cương nghị, bình tĩnh, trong sạch, khiêm cung, không âm mưu, không giả
dối, không sợ hãi.
7. Tay thẳng: biểu hiện sự hiếu hòa, không hiếu chiến, nhưng bình tĩnh, sáng suốt, động trong tĩnh.
8. Hai bàn chân trụ theo hình chữ V:
theo văn minh khoa học là một điểm tựa vững chắc mà người phương Tây gọi
là Tam giác vàng và theo ngạn ngữ Việt Nam thì:
“Dù ai nói ngã nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.”
Trụ tâm pháp (tấn) đầu tiên của Vovinam
là một thế đứng chắc chắn nhất để trụ cả thân lẫn tâm. Vì vậy, gia đình
Vovinam luôn luôn vững vàng, hạnh phúc trên hai chân trụ.
b) Ý nghĩa tư thế “Nghiêm-lễ”
Tư thế “Nghiêm-lễ” hàm chứa những khởi
điểm về nền móng kỹ thuật và lý thuyết của Vovinam. Từ trước đến nay,
chúng ta chỉ mới biết hình thức và ý nghĩa chính một cách khái lược,
tổng quát (Bàn tay thép đặt trên trái tim Từ ái, chỉ dụng võ sau khi đã
đặt lên đó một tình thương). Chưa ai thắc mắc về xuất xứ cũng như chiều
sâu của tư thế nghiêm-lễ.
* Tư thế “Nghiêm lễ” xuất xứ từ truyền thống lễ giáo Việt Nam
Bất cứ một người Việt Nam nào cả nam phụ
lão ấu đều dùng hình thức khoanh tay trước ngực, đứng nghiêm chỉnh
trước quần chúng quan khách, trong một khung cảnh trang nghiêm trước
người trên hay một bậc thầy đáng kính.
Bất cứ ai cũng thấy ấm lòng và hạnh phúc
trong niềm hân hoan tự đáy lòng khi nhìn thấy những đứa trẻ thơ ngây
3-4 tuổi, vụng về khoanh tay cúi đầu trước mặt các người thân. Hình thức
kể trên để bày tỏ sự chào kính, sự vâng lời một cách tự nguyện, bày tỏ
tính khiêm cung nhưng vẫn hiên ngang. Sự bày tỏ tính ngoan ngoãn, vâng
lời này là truyền thống lễ giáo trên 4.000 năm văn hiến của dân tộc Việt
Nam.
Sáng tổ Nguyễn Lộc đã dùng hình thức này
nhưng để phù hợp với Vovinam (dùng võ thuật phổ biến), ông đã cải biến
cho đúng với tinh thần phòng thủ tự vệ của bậc thầy võ thuật là lúc yên
bình phải nghĩ đến nguy khốn, muốn hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh.
Vì vậy, ông đã bỏ tay trái xuống sát thân mình để biến thế khoanh tay
hòa bình kính cẩn thành vừa hòa bình (tay phải vẫn còn lại trên ngực)
vừa sẵn sàng phản ứng khi bị tấn công (tay trái thấp xuống tự do).
Chúng ta có thể nói tư thế “Nghiêm-lễ”
thể hiện một khung cảnh hòa bình có phòng thủ. Và đó cũng là tính cách
của mỗi thành viên Vovinam.
* Tư thế “Nghiêm-lễ” là thế vật đầu tiên
Tay phải khi đưa thẳng về phía trước đã
biểu trưng sự chào mời, hướng dẫn tân khách với tình thân thiết. Đây
cũng là động tác vật đầu tiên trong hệ thống Vật căn bản của Vovinam –
đặt tay vào gáy đối phương mỗi khi thực hiện thế vật, sau đó kéo đối
phương về phía mình (dụng võ). Bởi chỉ dụng võ sau khi đặt lên đó một
tình thương, nên tay kéo về đặt trên trái tim.
Đối với hầu hết các sắc dân trên toàn
thế giới, trái tim tượng trưng cho tình yêu. Nhưng trong tình yêu, trái
tim được gọi bằng nhiều tên (trái tim ác độc, trái tim mù lòa, trái tim
băng giá, trái tim nồng cháy v.v.). Ở đây, trong Vovinam, Sáng tổ đặt
tên là trái tim Từ Ái. Có nghĩa là trái tim người mẹ. Đó là một thứ tình
yêu gần như không biên giới, vì nó bao la, sâu thẳm, thể hiện bằng sự
hiến dâng, hy sinh tuyệt đối cho con cái của người mẹ. Trái tim Từ Ái là
trái tim Vovinam.
Dụng võ của gia đình Vovinam với chủ
trương không thượng đài, thì chỉ có nghĩa duy nhất là tập luyện, chơi
đùa khi thực hành các thế vật. Vì vậy, Sáng tổ Nguyễn Lộc muốn học trò
ông phải có tình thương của một người mẹ khi khổ luyện để giảm thiểu tối
đa sự đau đớn nguy hiểm cho các thành viên trong gia đình. Có nghĩa là
“nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa” trong mỗi đòn thế, như một
người mẹ nâng niu bế ẵm, dắt dìu con thơ.
* Tư thế “Nghiêm-lễ” là cốt lõi của Vovinam
Với chủ trương luyện cho học trò một
thân thể rắn chắc, dẻo dai, Sáng tổ Nguyễn Lộc đã đề xướng phương pháp
luyện thân thép nên mới có bàn tay thép. Khi bàn tay thép đã đè sát trái
tim Từ Ái là đã chuyển từ tinh hoa thứ nhất (võ thuật) sang tinh hoa
thứ hai (tình Vovinam) – một thứ tình phát xuất từ khổ luyện bằng những
thế vật hòa với hành tàng (hoạt động ẩn chứa bên trong) của trái tim Từ
Ái.
Hình thức áp tay lên ngực đã thể hiện sự
trấn an, sự tự vấn lương tâm trước nghịch cảnh sắp tới. Qua đó, Sáng tổ
đã nhắc nhở học trò của ông phải bình tĩnh sáng suốt, phải dùng tình
thương yêu, sự hy sinh bao la của người mẹ đối với con cái để hóa giải
mọi tình huống xảy ra. Có nhẫn nhục, cẩn trọng thì mới mong vượt khỏi
lên trên những ngang trái khó khăn có thể dẫn tới đớn đau, nguy khốn cho
mình. Trong từ ngữ Hán Việt, chữ nhẫn gồm chữ đao ở trên chữ tâm ở
dưới giống như là hình thức nghiêm lễ; có nghĩa là nhịn nhục tất cả
những nghịch cảnh đã từng xảy ra những đớn đau tan hồn nát xác giống như
những gì Sáng tổ đã chịu đựng?
Có nhịn nhục thì mới biết bao dung để
tha thứ cho người, để vượt khỏi lên trên những tối tăm tội lỗi, để giống
như trái tim Từ Ái miệt mài lắng trong gạn đục đưa máu nuôi nấng tâm
thân. Và những dòng Từ Ái đó sẽ hội nhập với trăm ngàn nguồn thương yêu
khác để tạo thành biển cả cho tròn câu Thương Yêu và Tha Thứ vô bờ. Đó
là 7 chữ cuối cùng của một bậc tài hoa mạng yểu, một thiên tài trước khi
trở về cõi vĩnh hằng. Bảy chữ này chính là cứu cánh của gia đình
Vovinam.
Tư thế “Nghiêm-lễ” được gọi là cốt lõi
của Vovinam, là bài học đầu đời của mỗi thành viên bước chân vào gia
đình Vovinam và sẽ là hành trang trọn đời của mỗi thành viên.
3. Ý nghĩa tư thế “Lễ”
Nghiêng mình để bày tỏ sự khiêm cung với
cả tấm lòng, mặt hơi ngước lên để bày tỏ sự quang minh, công chính.
Hành động dịu dàng, uyển chuyển, linh hoạt nhưng không mất đi phong thái
hiên ngang vững vàng của một con người thật người. Ngước mặt nhìn người
đối diện để bày tỏ sự trang trọng, trong sáng, chính trực với ánh mắt
khoan dung, hoan hỷ.
Theo truyền thống lễ giáo Việt Nam thì chữ Đức và Hạnh là căn bản của Đạo làm người (đạo ở đây có nghĩa là con đường).
Cửu đức và bát hạnh đã được lưu truyền
và coi đây như là khuôn thước cho con người thời phong kiến và ngày nay
vẫn còn được tôn trọng cũng như noi theo. Phàm con người muốn hoàn hảo
đều phải có cửu đức. Nam chú trọng đến ngũ đức (ngũ thường) là Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí,Tín và nữ giới cần tứ đức là Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
Trong giới võ thuật, thiết nghĩ cần thêm đức thứ mười là Dũng.
Bên cạnh cửu đức là bát hạnh gồm Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ.
Trong nghi thức Nghiêm lễ có đầy đủ
những đức hạnh chính và nhiều đức hạnh phụ khác (khiêm tốn, thanh cao,
bất khuất, thành khẩn, hy sinh, nhẫn nhịn v.v.). Tùy theo không gian và
đối tượng, những đức hạnh có sẵn trong người mỗi thành viên sẽ theo thói
quen mà phát khởi bằng hành động bên ngoài hoặc bừng lên trong tâm não.
Những ý nghĩa cụ thể về thập đức và bát hạnh cùng giá trị của nó trong
xã hội hiện đại sẽ được đế cập trong một bài viết khác.
Do đó, mỗi lần Nghiêm lễ là mỗi lần trau
dồi đức hạnh. Mỗi đòn thế khi tập luyện đều giúp người Vovinam thực thi
đức hạnh và tình Vovinam ngày một thắm thiết, chan hòa.
Và để tạm kết thúc, không ai có thể chối
cải sự thật hiển nhiên – nghi thức Nghiêm lễ là một biểu tượng tuyệt
đối về sự đồng tâm nhất trí với tinh thần tự giác, tự nguyện của các
thành viên Vovinam.
Võ sư Nguyễn Đức Quỳnh Kỳ (trong tập Một năm thương nhớ năm 2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét